Đặc điểm Arctocephalinae

Hải cẩu lông có liên quan chặt chẽ hơn với những con sư tử biển hơn là những con hải cẩu thật sự trong họ Phocidae dù bề ngoài của chúng tương tự nhau, và chia sẻ đặc tính với các loài sư tử biển này qua hệ thống tai ngoài (pinnae), những cái móc (chân trước) trước khá dài và cơ bắp, và khả năng đi bộ bằng cả bốn chân tương đối tốt so với những họ hàng của chúng. Chúng đánh dấu lãnh thổ bởi vùng đất dày đặc của chúng và có tập tính tập trung đông đảo trên một phạm vi bãi biển, làm cho chúng trở thành đối tượng săn bắt thương mại từ lâu trong lịch sử. Tám loài thuộc chi Arctocephalus và được tìm thấy chủ yếu ở Nam bán cầu, trong khi một loài thứ chín cũng đôi khi được gọi là hải câu lông hay hải cẩu lông mao bắc Thái Bình Dương (Callorhinus ursinus), thuộc chi khác và sống ở Bắc Thái Bình Dương.

Các con hải cẩu lông chia sẻ với các động vật trong họ Otariidae khác có khả năng xoay chân sau của chúng về phía trước và di chuyển trên tất cả bốn chân. Nhưng những con hải cẩu lông thường nhỏ hơn sư tử biển. Với chiều dài dưới 1 m (3 ft 3 inch) và cân nặng 64 kg (con cái cân nặng 28 kg), hải câu lông Galápagos là con hải cẩu nhỏ nhất trong số tất cả các loài đông vật chân màng. Tuy nhiên, chân mày của chúng có khuynh hướng kéo dài hơn, da của chúng có xu hướng tối màu hơn, và các sợi râu ria của chúng nổi bật hơn. Con đực thường nặng gấp 5 lần so với con cái, làm cho chúng trở thành những con lưỡng hình di tính nhất của tất cả các nhóm động vật có vú.

Hải cẩu lông nâu hay hải cẩu Nam Phi (Arctocephalus pusillus) là loài hải cẩu có lông lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong phân họ Arctocephalinae (hải cẩu lông mao). Những phân loài ở Nam Phi lớn hơn phân loài ở Úc, con đực ở Nam Phi dài 2,3m và nặng trung bình từ 200–300 kg[1], con cái nhỏ hơn con đực, trung bình dài khoảng 1,8m và nặng khoảng 120 kg[2] trong khi đó, những con đực ở Úc dài khoảng 2-2,2m và nặng từ 190–280 kg[3], con cái dài 1,2-1,8m và nặng từ 36–110 kg[2]. Xếp sau loài hải cẩu lông nâu là loài Hải cẩu lông mao bắc Thái Bình Dương (Callorhinus ursinus) với con đực có thể dài 2,1 m và nặng đến 270 kg, con cái có thể dài 1,5m và nặng khoảng 50 kg hoặc hơn. Đây là loài lớn nhất trong phân họ hải cẩu (Arctocephalinae) ở Bán Cầu Bắc.

Liên quan